La Hán là đệ tử đắc đạo của Phật, là chính quả có tu hành cao nhất trong Phật giáo. Tu đến cảnh giới La Hán tức là đã đoạn tận buồn phiền của tam giới, diệt trừ những điều đã thấy, vĩnh viễn giải thoát luân hồi. Về mặt ý nghĩa, La Hán có thể coi là Vô Cực Quả hoặc Giải Vô Học Quả, biểu thị đã đạt tới cực điểm, học hết mọi thứ, không có gì không thể học rồi.
La Hán trong Phật giáo có ba ý nghĩa:
Một là “sát tặc”, tức là loại bỏ mọi buồn phiền. Phật giáo dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi mê muội, vọng tưởng, nghi hoặc, bởi nó chính là nguyên nhân gây nhiễu loạn nội tâm thanh tĩnh, trở ngại chi tu hành, mang tới tình cảm tai hại. La Hán diệt bỏ mối họa này.
Hai là “ ứng cung”, gọi là chính quả La Hán, đã đoạn diệt với tất cả những nguyên nhân có thể dẫn tới sinh tử lưu chuyển, cả người thanh tĩnh, được trời cung dưỡng.
Các vị La Hán xuất hiện khá sớm, chủ yếu xác định dựa vào căn cứ là sáng tác “Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La sở thuyết pháp trú ký” của Đường Đại Huyền Trang. Trong đó có đề cập tới 16 vị La Hán, là đệ tử được Phật cử ở lại nhân gian, không vào cõi Niết Bàn, được chúng sinh cung dưỡng để bảo vệ Phật hiệu.
Khi thuyết về
18 vị La Hán hưng khởi, người ta lý giải ý nghĩa của con số 18 là vì số 9 là số may mắn, bội số của 9 là 18 cũng là một con số rất tốt lành. Vì thế nên La Hán có 18 vị, chứ không phải 16 vị. Thực chất, mọi con số trong Phật giáo đều chỉ mang tính chất ước lệ tương trưng, hầu như không có căn cứ chính xác. Xem thêm bài viết:
Số 7 có ý nghĩa thần thánh gì trong Phật giáo và các tôn giáo khác?
Qua các thời kì, nhiều dị bản về các vị La Hán xuất hiện, lưu truyền và được bổ sung nên tên gọi cùng sự tích, vị trí xuất hiện của các vị không đồng nhất. Ghi chép sớm nhất về 18 vị La Hán là của Tô Đông Pha người Bắc Tống, Trung Quốc. Tô gia chuyên tâm hướng Phật, quy về làm đệ tử cửa Phật, cùng với một vị đại sư vẽ ra Thập Bát La Hán thư, sau này lần lượt có nhiều sự thay đổi, bổ sung, thêm bớt hoặc hoán vị nhưng quy chung lại vẫn là cốt lõi tinh thần từ tác phẩm này.